Hiến pháp 1959 Chế định Chủ tịch nước Việt Nam

Tính đến năm 1959, miền Bắc Việt Nam đã được kiểm soát hoàn toàn bởi lực lượng cộng sản sau chiến thắng tại trận Điện Biên Phủ, hiệp định Geneve ký với chính phủ Pháp ngày 21 tháng 7 năm 1954. Miền Bắc lúc này đang thực hiện quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong khi đó ở miền Nam thì Hoa Kỳ đang có mưu đồ thay thế Pháp, can thiệp sâu hơn vào miền nam, thông qua viện trợ kinh tế, quân sự đã đưa chính quyền thân Hoa Kỳ do Ngô Đình Diệm đứng đầu lên cầm quyền tại miền Nam. Qua đó xây dựng một quốc gia để đối trọng lại với miền Bắc, ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản.

Miền Bắc buộc phải thực hiện công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng xã hội chủ nghĩa trở thành hậu phương nhằm chi viện cho miền Nam. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sức tiến hành công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tạo xã hội để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.

Để phù hợp với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương xây dựng một bản hiến pháp mới. Do hoàn cảnh chiến tranh, hiến pháp năm 1946 đã không được sử dụng và đến lúc này thì nó đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện hiện tại từ tiến trình dân chủ chuyển sang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khác với bản hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp năm 1959 xây dựng trên nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Đây được cho là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của Việt Nam. Trong bản Hiến pháp này, chế định nguyên thủ quốc gia vẫn là chủ tịch nước, nhưng đã có những điểm thay đổi về căn bản so với chế định chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946. Chế định chủ tịch nước cũng có nhiều thay đổi so với bản hiến pháp trước đó.

Đây là lần đầu tiên, Hiến pháp năm 1959 ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia tại chương V, gồm 10 điều (từ Điều 61 đến Điều 70). Việc ghi nhận chế định chủ tịch nước thành một chương riêng biệt trong Hiến pháp chứng tỏ Hiến pháp năm 1959 có sự đổi mới rõ rệt so với Hiến pháp năm 1946.[1]

Quy trình và nhiệm kỳ

Việc thành lập chức danh chủ tịch nước về cơ bản không khác biệt nhiều với Hiến pháp 1959, chủ tịch nước vẫn do quốc hội bầu ra. Thiết chế chủ tịch nước vẫn phái sinh từ Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cùng Quốc hội thực hiện các chức năng nguyên thủ, điều phối các cơ quan cấp cao trong Bộ máy Nhà nước. Quốc hội bầu ra chủ tịch nước, công dân Việt Nam từ 35 tuổi trở lên có quyền ứng cử chủ tịch nước, những người này không nhất thiết là đại biểu quốc hội. Khác với chế định chủ tịch nước hiến pháp 1946 là chủ tịch nước phải là nghị viên của nghị viện nhân dân, và hai bản hiến pháp sau này là hiến pháp 1980, 1992 chế định chủ tịch nước được lựa chộn trong số các đại biểu quốc hội, đổi mới này đã mở rộng khả năng ứng cử vào ghế chủ tịch nước của nhân dân, cho thấy tư duy "thoáng" của các nhà lập hiến.

Nhiệm kì của chủ tịch nước theo nhiệm kì của Quốc hội.[12] Ngoài chế định chủ tịch nước năm 1946 với nhiệm kì của chủ tịch nước không theo nhiệm kì của nghị viện nhân dân, nhiệm kì của chủ tịch nước ở các bản hiến pháp còn lại sau đó đều theo nhiệm kì của quốc hội, là sự thể hiện nguyên tắc tập trung quyền lực vào cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân.

Địa vị, quyền hạn

Chủ tịch nước đứng đầu bộ máy nhà nước, không còn đứng đầu hội đồng chính phủ, chỉ thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước từ hiến pháp 1959 trở về sau phải chịu trách nhiệm trước quốc hội, báo cáo hoạt động của mình trước quốc hội và chịu sự chất vấn của các đại biểu quốc hội. Do tính chất của quốc hội là cơ quan dân cử cao nhất ở trung ương, chủ tịch nước nói riêng và các cơ quan cao nhất khác ở trung ương nói chung đều chịu sự giám sát tối cao của quốc hội.

Như vậy, chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà nước nhưng không còn là người đứng đầu Chính phủ như trong Hiến pháp năm 1946. Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước thực hiện các chức năng thuộc về đối nội, đối ngoại.[13] Sự phân định chức năng nguyên thủ giữa chủ tịch nước, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển sang hướng mới. Mọi quyền hạn quan trong đều thuộc về Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước chủ yếu thực hiện các công việc có tính đại diện cá nhân và tham gia nhất định vào các hoạt động của Nhà nước như lập pháp, thành lập các cơ quan Nhà nước, tặng thưởng huân chương, tuyên bố chiến tranh… nhưng đều dựa trên quy định của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, chủ tịch nước chỉ đảm nhiệm chức năng nguyên thủ quốc gia trong lĩnh vực đối nội, đối ngoại. Quyền lực có nhiều thay đổi so với chế định chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 với mục đích đề cao vai trò tập thể nên đã chuyển một số quyền hạn của chủ tịch nước được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1946 sang cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội, bên cạnh đó lại quy định những quyền hạn khác của chủ tịch nước mang tính chất thủ tục.

Cụ thể là những quyền hạn sau:[14][15][16][17][18]

  • Căn cứ vào quyết định của quốc hội hoặc uỷ ban thường vụ quốc hội công bố luật, pháp lệnh
  • Bổ nhiệm, bãi miễn thủ tướng, phó thủ tướng và các thành viên hội đồng chính phủ
  • Bổ nhiệm và bãi miễn Phó chủ tịch và các thành viên khác của hội đồng quốc phòng.
  • Công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá.
  • Tặng thưởng huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước
  • Tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố tổng động viên, động viên cục bộ, hoặc lệnh giới nghiêm.
  • Tiếp nhận đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài cử đến, căn cứ vào quyết định của quốc hội hoặc của uỷ ban thường vụ quốc hội mà phê chuẩn hiệp ước ký với nước ngoài
  • Cử và triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ở nước ngoài.
  • Thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức chủ tịch hội đồng quốc phòng.
  • Khi xét thấy cần thiết có thể tham gia và chủ toạ các phiên họp của hội đồng chính phủ. Khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ hội nghị chính trị đặc biệt.

Có thể chia quyền hạn, nhiệm vụ của chủ tịch nước thành những nhóm sau:

  • Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại như: Tiếp nhận đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài cử đến; cử, triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn hiệp ước ký với nước ngoài. Thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc; giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà tuyên bố tình trạng chiến tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm. Quyết định tặng thưởng huân chương và các danh hiệu vinh dự của Nhà nước. Công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá...
  • Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
    • Về lĩnh vực lập pháp, chủ tịch nước có các quyền như: Trình dự án luật ra trước Quốc hội và dự án pháp lệnh ra trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội.[19] Công bố pháp luật, pháp lệnh. Các đạo luật phải được công bố chậm nhất 15 ngày sau khi Quốc hội đã thông qua.
    • Về lĩnh vực hành pháp, chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Quốc phòng.[14]
    • Về lĩnh vực tư pháp và giám sát, đối với các cơ quan như Tòa án Nhân dân tối cao, hay Viện Kiểm sát tối cao, thì theo quy định của Hiến pháp 1959, chủ tịch nước hầu như không có nhiệm vụ và quyền hạn gì.

Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hiến pháp 1959 cũng quy định chủ tịch nước, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ[17] hoặc triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt.[18]

Có thể thấy toàn bộ quyền lực nhà nước được trao trực tiếp cho nhân dân thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội và như vậy quyền lực to lớn của chủ tịch nước được ghi nhận trong hiến pháp 1946 cũng đã bị giới hạn đáng kể. Nguyên thủ quốc gia chỉ còn là người đứng đầu nhà nước, người thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại, không còn là người lãnh đạo chính phủ. Những quyền lực khác đã được giao cho quốc hội và chính phủ trực tiếp thục hiện.

Cần nói thêm là trong những năm 1949 đến năm 1952 đã diễn ra và hoàn tất quá trình phân biệt rõ chức trách của chủ tịch nước và chính phủ: Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào công việc của chủ tịch nước và ban hành các sắc lệnh, còn thủ tướng tập trung vào công tác lãnh đạo hội đồng chính phủ.

Như vậy so với chế định chủ tịch nước năm 1946, chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp năm 1959 có những điểm khác biệt như: Thay quyền chỉ huy các lực lượng vũ trang bằng quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang. Thay quyền ban bố luật bằng quyền công bố luật, không còn quyền yêu cầu Quốc hội thảo luận lại luật, không còn quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm các chức danh trong cơ quan Hành chính và chuyên môn, đồng thời chủ tịch nước không còn quyền triệu tập, chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ trừ trường hợp cần thiết. Bên cạnh đó chủ tịch nước còn phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Trước đây chủ tịch nước chủ yếu sử dụng sắc lệnh, bây giờ phải dùng luật để điều hành đất nước.

Tuy nhiên, quyền hạn của chủ tịch nước hiến pháp năm 1959 vẫn còn rất lớn như: "Khi xét thấy cần thiết có thể tham gia và chủ tọa các phiên họp của Hội đông chính phủ",[17] bổ nhiệm thủ tướng... thể hiện tư duy của nhà lập hiến trong việc phối hợp hài hòa quyền lực, giữ lại một số quyền lực nhất định cho chủ tịch nước bảo đảm theo hướng có lợi cho việc can thiệp vũ trang đang tiến hành ở miền Nam đồng thời thực hiện quá trình chuyển hướng tư duy theo hướng xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành ở miền Bắc.

Mối quan hệ với các cơ quan cao nhất

  • Mối quan hệ giữa chủ tịch nước với Quốc hội: chủ tịch nước do Quốc hội bầu, (chọn trong công dân) với nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội (4 năm). Và khác với Hiến pháp năm 1946, chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Điều đó cho thấy ở Hiến pháp năm 1959, vị trí của chủ tịch nước gắn bó với Quốc hội hơn so với Hiến pháp năm 1946, và điều này phù hợp hơn với nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
  • Mối quan hệ giữa chủ tịch nước với Chính phủ: chủ tịch nước vẫn có vai trò khá lớn đối với Hội đồng Chính phủ. Chủ tịch nước đề nghị Thủ tướng để Quốc hội quyết định, căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ mà bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; khi cần thiết có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Đây là những điểm kế thừa vị trí của chủ tịch nước đối với Chính phủ ở Hiến pháp trước.
  • Mối quan hệ giữa chủ tịch nước với Toà án, Viện kiểm sát: Cũng như Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 chưa có quy định rõ ràng về mối quan hệ giữa chủ tịch nước với Toà án, cũng như quan hệ giữa chủ tịch nước với Viện kiểm sát.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chế định Chủ tịch nước Việt Nam http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76... http://www.mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/vZRZj6JA... http://www.mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/vZTLjqJA... http://www.mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/vZTLkqIw... http://www.mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/vZTZcqJA... http://www.mod.gov.vn/wps/portal/!ut/p/b1/vZTbjqJA... http://www.mattran.org.vn/home/DatnuocVN/VietNam/C... http://tcnn.vn/Plus.aspx/vi/News/125/0/1010067/0/7...